Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

ĐÁY, ĐÁY ƠI!!!




Dòng sông Đáy quê tôi,
Sông trăng hay sông lụa…

Tôi rất thích bài hát này. Bài hát đã đụng đến cái thần một dòng sông và cả một miền quê yêu dấu nơi tôi đã cất tiếng khóc chào đời.

Sông Đáy khẽ lượn một vòng cung nhỏ đoạn chảy qua quê tôi. Khúc lượn ấy hướng vào phía làng Đôn Thư, thành ra chỗ ấy bị lém, bờ sông cao chênh vênh. Người làng phải đắp đá làm kè đoạn sông ấy từ hồi nào đó rất xa xưa.

Ngay sát chân đê là cái chợ èo uột, nhỏ bé với dăm ba lều quán xiêu vẹo. Các cụ bảo hồi trước chợ tấp nập đông vui, người thiên hạ mang hàng tới bán nhiều lắm. Bây giờ chợ có cái gì đó xơ xác, điềm báo làng nghèo đi. Dù thế thì nó vẫn là cái chợ đặc biệt. Làng bên có chợ Chuông nổi tiếng trong vùng, họp vào buổi sáng, phiên chính diễn ra vào mùng 4, mùng 10, 14, 20, 24 và 30 âm lịch hàng tháng. Chợ làng tôi bây giờ cũng họp vào buổi sáng nhưng xưa kia chỉ họp vào buổi chiều. Cái tên chợ Chiều nghe man mác, luôn có tính gợi nhớ về một vùng quê nghèo, yên bình và đầy lắng dịu.

Từ chợ Chiều đi lên đê sẽ thấy một con đường đất rộng dẫn thẳng xuống sông. Nơi con đường gặp sông gọi là bến Ông Quản Long. Lũ trẻ chúng tôi thường ra chơi đùa với sông ở chỗ ấy.

Sông Đáy không lớn nhưng luôn có cái gì đó thơ mộng. Sông mơ màng, trong lành chảy giữa những bãi mía bãi ngô xanh ngút ngàn. Nét thơ mộng này của sông đã đi vào thơ ca:
“Sông trăng hay sông lụa…”.

Đứng ở bến Ông Quản Long nhìn ra, dòng sông như rộng lớn, mênh mông. Trong trí nhớ trẻ thơ, sông Đáy to lớn, gió luôn lang thang từ những bãi ngô bãi mía rộng lớn phía bờ bên kia thổi lại.

Nhà ông Quản Long trông lừng lững, nằm ngay sát mép bờ sông cao chênh vênh. Đó là một toà nhà kiên cố, có lẽ là kiên cố nhất làng. Ngôi nhà ngự trên nền đất rất cao phía trên và nhìn thẳng ra sông. Từ bến Ông Quản Long phải trèo lên hàng chục bậc đá mới tới được cái sân thênh thang.

Tôi không biết ông Quản Long. Lúc tôi ra đời thì ông đã quay về nơi ông đến. Con cháu ông là ai tôi cũng không được rõ. Nhìn ngôi nhà cổ với bức tường xây bằng đá tảng xù xì mà mạch vữa là những đường lượn phẳng lì điệu nghệ, chúng đã lên men thời gian. Rêu phong và cả rễ cây ló ra đâu đó. Chúng bám chắc vào đá. Ngôi nhà, bức tường đá đồ sộ ngay sát bờ sông làm tôi hình dung ông Quản Long phải là người to lớn, giàu có, nước da xạm phong trần.

Rêu phong và nét bàng bạc thời gian đã phủ bóng lên bức tường đá đồ sộ. Ngôi nhà có phần âm u với cái sân phía trên cao trong nỗi u mặc cứ lừng lững hướng nhìn ra sông làm mọi thứ trở nên huyền bí vô cùng.

Chỗ bờ sông và cả phía trên cao, nơi vườn nhà ông Quản Long, dọc theo bờ sông, có rất nhiều tre. Tre mọc um tùm. Tre được trồng là để chống chọi với gió mưa và với việc lở bồi của con sông. Cây cối che đi ánh sáng làm nơi bờ sông ngự trị một thứ không khí âm u huyền mặc. Cũng có thể phía ngoài sông, dòng sông khoáng đạt, ánh sáng tràn trề và luôn có xu thế muốn ùa vào bờ đã làm nổi bật sự tĩnh mịch và âm u của ngôi nhà.

Mẹ tôi bảo ngày xưa nơi này trên bến dưới thuyền. Căn cứ vào bức tường đá to lớn cao ngất ngưởng bên sông, ngôi nhà bề thế của ông trùm buôn bè Quản Long, tôi hình dung ra một thời tấp nập của con sông, một thời thịnh vượng của quê nhà.

Tuổi thơ tôi gắn bó nhiều với dòng sông, dù rằng lúc ấy sông không còn “trên bến dưới thuyền” nữa. Chỗ bến Ông Quản Long chỉ là nơi dân làng ra đó tắm giặt, là nơi hàng ngày có mấy thuyền của dân khai thác cát ghé vào. Bến vẫn được gọi là bến, bến Ông Quản Long.

Vào những dịp Tết, dân làng thường mang lá rong ra Bến ông Quản Long. Nước sông trong, sạch với những hòn đá nhẵn trơn nơi mép nước. Một lần tôi theo chị ra sông. Nhà tôi ở giữa làng. Để ra tới sông hai chị em phải chuẩn bị từ tối hôm trước. Chị đi trước, trên vai cái đòn gánh nâu bóng. Hai đầu đòn gánh móc vào hai cái quang tre. Chị để thúng lá rong lên một hòn đá. Tôi lội xuống sông, chân tôi giẫm vào những hòn đá trơn tuột. Nước mát trong lưng lửng nơi đầu gối. Trong buổi sáng cuối năm thơ ấu xa xôi, tôi cần mẫn cùng chị rửa từng chiếc lá xanh…

Lá rong để gói bánh chưng, người ta lấy ở trên rừng. Hai chị em phải mất nhiều tiếng đồng hồ mới rửa xong chồng lá gói bánh chưng mà mẹ mua hôm trước ở chợ Chuông.

Bên lợi nước nơi bến Ông Quản Long, hàng ngày có những chiếc thuyền nan ghé vào. Ngay bên sông, chỗ bãi cát hẹp nằm sát mép nước, mỗi khi có một chiếc thuyền nan của dân chài nào đó cập vào là có dăm ba người trên bờ xúm lại. Họ xem và mà cả mua những món dân chài vừa đánh bắt được từ sông. Thường là những món nhỏ: dăm ba con cá bò vàng ươm, mấy con thờn bơn mình mỏng dẹt, có khi là mấy con chạch chấu to bằng nửa cổ tay, dài chừng gần mét. Có lần tôi thấy người ta mang lên bờ một con cá măng, dài bằng cái đòn gánh, đầu nhọn hoắt, vảy lấp lánh bạc.

Chỗ bến Ông Quản Long sông như rộng ra. Dân làng tôi nói rằng sông Đáy tới đây, nước chảy cuộn về phía làng, tạo ra vết lõm, vì thế chỗ ấy nước sâu. Dưới những mỏm đá lởm chởm dọc theo bờ sông có Nam, tức là vong hồn những người chết đuối. Nam luôn ẩn nấp đâu đó trong hang sâu, gần đáy sông. Các bà các cô trong làng, với giọng thì thào sợ sệt, kể rằng thỉnh thoảng Nam lại hiện lên trêu trọc hoặc bắt ai đó mang đi. Hàng năm, dù cái làng bé nhỏ, nhưng hình như đều có người chết đuối ở sông. Với lũ chúng tôi, tất cả chuyện ấy rất hiện hữu, có thật, cho dù bàng bạc một màu huyền thoại.

Nước sông trong. Xa bờ một chút, mặt sông lác đác những sào tre cắm xuống đáy sông, đầu nhô cao khỏi mặt nước. Sào tre là chỗ dân chài neo đậu thuyền. Những chiếc thuyền nan nghèo, thân và mái làm bằng những tấm đan bằng tre đực. Người ta pha những cây tre gộc ra thành những nan to và mỏng, đem phơi khô rồi đan lại thành những tấm phên. Tấm phên này lại được bồi các thứ nhựa cây, sơn và hắc ín nhiều lần rồi phơi nắng phơi sương, đến một lúc nào đó nó đã trở thành vật liệu bền vững, làm nên xương thịt của thuyền. Có thể vật liệu làm thuyền chủ yếu là những tấm phên đan bằng nan tre mà thuyền ấy gọi là thuyền nan thì phải.

Cả gia đình nhà chài sống trên chiếc thuyền đó. Thuyền chài lang thang trên sông, trong nắng, trong mưa và hình như trong cả…cuộc đời.

Trong đám con gái học cùng lớp với tôi hồi bé có Oanh. Oanh là con gái ông Chưởng, một dân chài chính cống. Tôi tiếc là biết rất ít về người bạn ấy. Năm kia về quê. Một lần gặp, Oanh chào mà tôi không nhận ra. Từ Oanh xinh xắn trong lớp ngày nào, nay đứng trước mắt tôi là người phụ nữ, như bao phụ nữ quê khác, dáng mệt mỏi, lam lũ vất vả in hằn. Tôi không dám hỏi nhưng biết chắc Oanh không còn là dân chài. Thuyền nan chẳng còn nữa. Dòng Đáy bây giờ không còn thuyền nan.

Khi đi xa rất nhớ dòng sông...
Đi đâu xa cũng nhớ về em…
Em đang đi,
Đi bên sông trở đầy nắng hồng…

Có một lời bài hát da diết như thế. Chẳng hiểu sao bài hát nào về sông cũng da diết. Tôi nghe và nhớ lắm dòng Đáy của tôi. Sẽ là thiệt thòi nếu ai đó trong đời không có một dòng sông của mình. Tôi luôn có một dòng sông. Tôi luôn nhớ nó. Đáy, dòng Đáy của tôi luôn mênh mang và tràn trề nước, hai bên bờ ngút ngàn mía và ngô. Tôi nhớ Đáy, nhớ những con chạch chấu đầu nhọn hoắt, những con cá bò vàng mũm mĩm nằm im trong những cái rổ thưa mà người dân chài bày bán ở chợ Chiều nơi chân đê. Tôi nhớ cả con măng dài bằng đòn gánh lấp lánh vảy bạc mà một lần tôi đã nhìn thấy.

Hồi học lớp 6, một lần giở cuốn sách giáo khoa, tôi đọc được câu thơ trong bài tập ngữ pháp:

Rồi lớn lên mỗi người mỗi ngả,
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông,
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng,
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến…

Tự nhiên thấy cảm động, xao xuyến về một cái gì đó rất mơ hồ.

Bài thơ “Nhớ con sông quê hương” của Tế Hanh làm tôi mê mẩn. Chẳng phải tôi mà Lộc, Thăng và những đứa trẻ gầy gò luôn lấm lem bùn đất quê tôi cũng thích bài thơ ấy. Còn nhớ, sau buổi học, mà chúng tôi có rất nhiều buổi học như thế, mấy đứa lại rủ nhau ra sông.

Trường cấp 2 nằm ngoài bãi. Có một con đường ra bến Ông Quản Long, nó nằm đằng sau trường. Mỗi lần đi theo con đường ấy ra sông, chúng tôi đều rất sợ, sợ… chó nhà ông Trịnh Cờ. Vài con lúc nào cũng thường trực như là chờ đợi. Chúng tôi đi qua trước cổng nhà ông Trịnh, mắt lấm lét canh chừng đàn chó. Lần nào cũng vậy, mấy con chó cứ gầm gừ rồi bất thần lao ra. Chó nhà ông Trịnh này dữ lắm, hình như lúc nào cũng là… chó đẻ.

Cũng giống như ở loài người, một con đã sủa là con khác hăng lên, ủng hộ, tiếp tay. Chống đỡ lại một con còn dễ chứ chống đỡ cả bầy là việc phức tạp. Lối qua cổng nhà ông Trịnh ấy luôn tiềm ẩn nguy hiểm bởi có cả một bầy chó dữ, chúng thường to lớn lộc ngộc. Dù nguy hiểm, chúng tôi vẫn thường xuyên phải đi qua đó, mỗi lần đến với sông.

Trưa mùa hè, nắng chói chang. Những đứa trẻ men theo con đường mòn đằng sau trường nhằm hướng trại ông Thương Vệ. Qua trại ấy đã là sông rồi. Trên sông có những bè nứa kên lại với nhau. Những bè nứa sắp thành hàng, từ bờ lan ra tới giữa sông. Nứa là của dân đi bè, họ khai thác những cây nứa xanh, to và thẳng đâu đó trên rừng rồi đóng thành bè và theo dòng nước đưa về tới tận làng tôi.

Nước Đáy trong xanh, mát rười rượi. Để cặp sách và quần áo trên bè nứa, chúng tôi vội vã phóng mình xuống dòng sông. Nước làm tôi thích thú. Tôi cùng đám bạn vùng vẫy thoả thích trong lòng con sông quê. Vừa bơi vừa lặn ngụp trong làn nước trong xanh, tôi vừa đọc vang những câu thơ vừa học trong sách vở một cách hào sảng và khoái trá:

Quê hương tôi có con sông xanh biếc,
Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè,
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng…

Những câu thơ chờn vờn trên mặt nước, những câu thơ oạp vào làn sóng miên man, theo sóng lan xa…

Thằng Thăng, thằng Lộc, và những thằng nào đó nữa, trong đấy có cả tôi, đã trở thành chim, những con chim non tung tăng bơi lội trên sông những trưa nào xa lắc…

Lớn lên, trong cuộc đời rộng lớn và ồn ã, tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi gặp nhiều người không biết bơi.

Những thân chuối hay cái chậu men Trung Quốc mà dù nghèo nhưng nhà nào cũng có hồi ấy, cả những cái ao làng chật hẹp nông choèn, những cái ao ông Trương Thùng, ông Tượng, ao Quan, ao Cậu Đệ, chúng rất nông, bèo cái thường phủ đầy mặt ao, tất cả đã dạy tôi chập chững những…mét bơi đầu tiên. Chân tay quạt nước ùm ùm, tôi vùng vẫy, còn dòng Đáy, vào những trưa hè tuổi thơ xa lắc, đã luôn ôm ấp, bao bọc, trong mát hiền từ và thật bao dung.

Tôi đã gặp rất nhiều dòng sông trong đời. Những dòng sông thơ mộng, những dòng sông hùng vĩ, tôi gặp cả biển cả, nhưng dòng Đáy vẫn luôn là dòng sông quyến rũ linh thiêng. Nó luôn lai láng chảy, chảy mãi…

“Một dòng xanh trong chảy mãi tới vô cùng…”
Có người đã hát hộ tôi lời ấy…

Một chiều giữa chốn bụi bặm, ngột ngạt bê tông, lô xô vô lối, lộn xộn èo uột những con đường, những chung cư, những chen chúc… , trong hoang vắng, một mình, tự dưng lòng thổn thức khẽ gọi: Đáy, Đáy ơi!



1 nhận xét:

Hải Khoát cám ơn các bạn đã ghé thăm nhà mới. Nhà mình đơn sơ nhưng tấm lòng rộng mở.